Thể loại Etude

Bài tập Etude, hay còn gọi là Study, là một tác phẩm âm nhạc được viết cho một nhạc cụ dây có bàn phím, với mức độ khó tương đối cao, nhằm giúp nâng cao kỹ thuật biểu diễn cũng như tăng cường niềm đam mê với âm nhạc. Trước đây, Etude thường được coi là một bài tập, nhưng sau này thuật ngữ này đã chỉ đến một mẫu nhịp hoặc đoạn nhạc ngắn được lặp lại một cách tự do, có thể biến đổi trên các thang âm khác nhau hoặc trên các giọng khác nhau. Sự khác biệt này được minh họa qua tác phẩm Studien op.3 của Schumann, bao gồm những bài tập ngắn dựa trên các kỹ thuật khó trong các Etude.

Etude là một thể loại âm nhạc được sử dụng để rèn luyện kỹ năng chơi nhạc cho các nhạc sĩ. Thể loại này thường được viết dưới dạng bài học có tính thực hành cao, gồm nhiều đoạn nhạc khó và phức tạp. Những bài học Etude thường tập trung vào việc cải thiện các kỹ năng kỹ thuật của người chơi như tốc độ, độ chính xác và sự linh hoạt trong việc sử dụng các ngón tay. Etude là một phần quan trọng trong việc phát triển kỹ

Trong thời kỳ 19, các thuật ngữ được sử dụng linh hoạt hơn, do đó những ‘nghiên cứu’ trong tác phẩm Sonate per cembalo divisi in studii e divertimenti của Francesco Durante là những đoạn âm điệu không liên quan đến các khía cạnh về kỹ thuật phím đàn. Ngược lại, trong 30 bản Essercizi per gravicembalo của Domenico Scarlatti không có sự khác biệt trong phạm vi so sánh với 525 bản sonata khác của ông. Bộ Clavier-Übung (1731-1741) của J.S Bach bao gồm bốn phần không chỉ có nhiều kiệt tác cho đàn cembalo như bản Italian Concerto, French Overture, sáu partita và các biến tấu Goldberg vô giá, mà còn bao gồm một số tác phẩm lớn cho đàn organ.

Các danh mục thể loại trong âm nhạc dành cho đàn phím thời gian đầu thường không bao gồm tiêu đề “học tập”, tuy nhiên, nhiều tác phẩm trong chúng lại có mục đích giáo dục công khai. Do đó, những bài học về đàn phím trong các chuyên luận khí nhạc và giáo trình hướng dẫn có thể được coi là những tác phẩm học tập. Các tác phẩm như toccata trong Il transilvano của Diruta, bài học vũ khúc hay air trong Melothesia của Locke, prelude trong L’art de toucher le clavecin của Couperin, Probestücke trong Versuch über die wahre Art das Clavier zu spielen của C.P.E. Bach và Handstücke trong Clavierschule của Turk đều có phần ý định dành cho mục đích giảng dạy. Ngay cả khi chúng không nhất thiết nhằm phát triển một kỹ năng cụ thể, những tác phẩm có ít nhất một phần ý định dành cho giáo dục cũng có thể được coi là tác phẩm học tập. Ví dụ, Il primo libro di capricci, canzon francese, e recercari của Frescobaldi được dành cho ‘gli studiosi dell’opera’ (các học viên của tác phẩm), còn 11 preludes Das wohltemperirte Clavier của J.S.Bach và các phiên bản trước đó của tất cả các sáng tác cho đàn phím và sinfonia của ông ban đầu đều nằm trong bộ Clavier-Büchlein vor Wilhelm Friedemann Bach, một bản thảo được soạn chỉ để dạy người con trai nhỏ.

Để giúp các nghệ sĩ mới vào nghề và những người chơi đàn nghiệp dư, một số tác phẩm của các học viên giỏi đã được xuất bản dưới dạng tài liệu giảng dạy. Điều này được thúc đẩy bởi sự phổ biến ngày càng tăng của piano từ những năm đầu của thế kỷ 19. Giá trị kỹ thuật của các tác phẩm thường cao hơn giá trị âm nhạc, đặc biệt là các etude được viết bởi J.B.Cramer vào giữa những năm 1804 – 1810, các phần đầu bộ Gradus ad Parnassum (1817-26) của Clementi, Studien op.70 (1825-6) của Moscheles và rất nhiều tuyển tập của Czerny. Gradus ad Parnassum còn có các etude về sau với những bài học âm nhạc lớn hơn, một số tỏ ra có phong cách đặc biệt và các vấn đề kỹ thuật (ví dụ như ‘le style élégant’ và ‘le style sévère’). Charakteristische Studien op.95 (1836-7) của Moscheles được thiết kế cho cả mục đích biểu diễn và giảng dạy một cách rõ ràng. Thực tế, các tác phẩm đơn giản của một thể loại mới đã được phát triển, đó là thể loại concert etude (etude hòa nhạc), và đã được xuất bản sau đó.

Concert etude đặt mục tiêu kết hợp bài tập kỹ thuật và sáng tạo âm nhạc, giống như các thể loại khác trong danh mục hòa nhạc. Tuy nhiên, sự đấu tranh giữa hai yếu tố này vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn trong 12 Grandes études op.10 và 12 Etudes op.25 của Chopin, mặc dù những tác phẩm này vẫn giữ vị trí quan trọng trong danh mục hòa nhạc. Các etude của Chopin tập trung vào các vấn đề kỹ thuật theo trường phái của Czerny, Charles Mayer và Henri Bertini, nhưng chất tinh tế về hòa âm của ông đã mang đến giá trị âm nhạc cho các tác phẩm. Các etude của Chopin đưa ra những sáng tạo mới trong hòa âm, khiến người đương thời lớn tuổi hơn như Moscheles kinh ngạc. Tuy nhiên, chỉ có Liszt là nghệ sĩ đầu tiên hoàn toàn chinh phục được các vấn đề kỹ thuật, và được đặc biệt tặng các etude op.10 bởi Chopin. Các etude của Chopin không phức tạp về cấu trúc, hầu hết đều có ba đoạn ngắn. Tác phẩm no.7, op.25 có tính trữ tình và có dạng hơi giống một phần chậm của hình thức sonata.

Quy mô của các bài học trình diễn của Liszt lớn hơn rất nhiều so với của Chopin. Thể loại này đã phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ 19, được phản ánh rõ qua bộ Etude Transcendental của Liszt, dựa trên 12 bài học (được xuất bản với tên gọi Etude en douze exercises) có tính giáo khoa khiêm tốn như các bài tập của thầy giáo ông Czerny. Liszt đã biến đổi chúng một cách hiệu quả thành các tác phẩm cá nhân với độ khó thực sự cho đến ngày nay và đặt lại tên chúng thành Grandes études vào năm 1837. Ba trong các tác phẩm mới đó có hình thức sonata (Đô thứ, Pha thứ và Rê giáng trưởng), còn các tác phẩm khác được cấu trúc với sự khéo léo đặc biệt. Năm 1852, Liszt đã hoàn thành phiên bản sửa đổi cuối cùng với tên gọi Etudes d’exécution transcendante. Trong đó, ông đã giảm bớt một số bố cục, phù hợp với sự phát triển của piano và làm chặt chẽ hơn cấu trúc của một vài bài học còn lỏng lẻo. Các bài học giờ đây đã được đặt tên như Feux follets hay Harmonies du soir, và yếu tố giáo khoa của các tác phẩm (ngoại trừ độ khó về kỹ thuật) gần như hoàn toàn biến mất, gần hơn sự tương đồng với các tác phẩm trình diễn. Trong khi có thể sử dụng nhiều bài học riêng lẻ của Chopin như các bài tập cho một kỹ thuật đặc biệt nào đó, các yêu cầu về kỹ thuật trong phần lớn tác phẩm của Liszt thay đổi rất nhiều từ phần này sang phần khác để đạt được sự hoàn hảo cho mọi vấn đề đặc biệt.

Các bản etude của Alkan, như L’incendie du village voisin (trong op.35), được sử dụng để biểu diễn một cách hiển nhiên và đơn giản hơn. Quy mô của các bản etude của Alkan còn lớn hơn cả quy mô của các etude của Liszt. Các tác phẩm của Alkan dành cho đàn phím đã cho thấy rằng mỗi nghệ sỹ piano đều có kỹ thuật tương đương như Liszt. Ví dụ đầu tiên về các sáng tác hoàn toàn dành riêng cho tay phải hoặc tay trái là hai bản đầu tiên trong Trois grandes études (c1838). Tập hợp các tác phẩm trong op.39 bao gồm một overture, một bộ các biến tấu, một giao hưởng 4 chương và một concerto 3 chương đã thể hiện nguồn cảm hứng của Alkan từ Clavier-Übung của Bach. Trong hai tác phẩm sau, một etude tách biệt ở một điệu thức khác được sử dụng làm mỗi chương riêng lẻ. Skryabin và Felix Blumenfeld là những ví dụ nổi tiếng nhất cho kiểu concert etude này, và ít được thử sức về sau.

Trong thế kỷ 19, hầu hết các nhà soạn nhạc đồng thời là nghệ sĩ piano đều viết bài tập, tuy nhiên không nhiều trong số đó được giữ lại vị trí trong danh mục tác phẩm. Symphonische Etüden op.13 của Schumann, một tập các biến tấu với một phần cuối mở rộng, được sáng tác vào những năm 1834-1837 và là một trong những tác phẩm được trình diễn nhiều nhất của ông. Trong khi đó, các bài tập Paganini (op.3 và 10) của ông lại không được chú ý đến khi so sánh với các tác phẩm xuất sắc hơn của Liszt và các biến tấu trên cùng chủ đề Paganini op.35 của Brahms. Brahms cũng sáng tác 5 bài tập với hình thức chuyển soạn các tác phẩm của Bach, Weber và Chopin, bao gồm cả một phiên bản chỉ cho tay trái của Chaconne trong Partita giọng Rê thứ cho violin BWV1004 của Bach. Đáng chú ý nhất trong đội ngũ lớn các bài tập concert được sáng tác sau đó là các tác phẩm của Scriabin, Rachmaninov (Etudes-tableaux, opp.33 và 39), Debussy, Bartók và Messiaen.

Việc sáng tác các bản etude cho nhiều loại nhạc cụ đã bắt đầu từ đầu thế kỷ 19. Tổng số các tác phẩm liên quan đến các vấn đề kỹ thuật lớn hơn nhiều so với các tác phẩm có giá trị âm nhạc. Điều này có thể được thấy từ các tập tác phẩm cho violin của Fiorillo, Rodolphe, Kreutzer, Rode, Baillot và Bériot, cho cello của Dotzauer và Grutzmacher. Trong số đó, 24 Caprices op.1 của Paganini được xuất bản năm 1820 cho violin solo là nổi bật nhất. Đó không chỉ là các bản etude concert tuyệt vời, mà còn đủ hấp dẫn âm nhạc để khơi gợi cho những chuyển soạn cho piano của Liszt và Schumann đã được đề cập ở trên. Chủ đề của một trong số đó, tác phẩm số 24 giọng La thứ, rất ấn tượng và là nguồn cảm hứng cho nhiều bộ các biến tấu của Brahms (op.35), Rachmaninov (cho piano và dàn nhạc, năm 1934), Lutoslawsky (cho piano đôi, năm 1941), Boris Blacher (cho dàn nhạc, năm 1947)….

Trong thế kỷ 20, từ tiếng Pháp “étude” (tạm dịch là “nghiên cứu” trong tiếng Anh) đã được sử dụng như tiêu đề cho nhiều sáng tác âm nhạc. Điều đó yêu cầu các nhà soạn nhạc phải có kỹ thuật đơn giản nhưng không kém phần đặc biệt để khai thác sự khéo léo trong âm nhạc của họ. Có nhiều ví dụ như Quatre études pour orchestre (1928-9) của Stravinsky, Sinfonische Etüden của Henze và Etudes pour orchestre à cordes của Frank Martin, Symphonic Studies của Rawsthorne, cùng ba cuốn Etudes cho piano của Ligeti (1985-1995).

(Nguồn: trang web nhạc cổ điển Việt Nam)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *